TPP đã dành hẳn một chương, Đối xử quốc gia và Tiếp cận thị trường,
quy định những nghĩa vụ cơ bản cho các nước thành viên TPP xóa bỏ thuế
quan cho những hàng hóa nhập khẩu từ nội khối và đối xử với các hàng hóa
này như với hàng hóa sản xuất trong nước.
TPP hướng tới tạo lập một sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp và
người lao động của mỗi nước thành viên trên thị trường các nước thành
viên khác. Bằng việc xóa bỏ thuế nhập khẩu và xuất khẩu (hoặc cắt giảm
theo lộ trình) cho các hàng hóa lưu thông giữa các nước thành viên, TPP
được kỳ vọng sẽ đảm bảo mọi chủ thể kinh tế từ nông dân đến chủ trang
trại, nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, và các doanh nghiệp nhỏ ở mỗi
quốc gia thành viên đều có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ ở
các nước thành viên khác trên một thị trường cực kỳ rộng lớn gồm 12
nước thành viên của khu vực kinh tế Châu Á Thái Bình Dương năng động.
Nếu cạnh tranh thành công ở một hay nhiều nhóm hàng hóa nào đó thì
các quốc gia thành viên sẽ có điều kiện mở rộng sự hiện diện của các
nhóm hàng hóa đóng mác “Made in...” ở nước mình ra toàn bộ khu vực TPP
và nhờ đó tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho công dân của mình.
Nói cách khác, TPP sẽ tạo ra cái thế “Win-Win” (cùng thắng) cho tất cả
các thành viên. Vậy ai sẽ là người thua thiệt? Đó là nhà xuất khẩu ở các
nước phi thành viên TPP vốn đang xuất khẩu vào khu vực TPP. Khi TPP
hình thành và xóa bỏ hàng rào thuế quan nội khối, hàng hóa xuất khẩu của
các nước bên ngoài khối đột nhiên trở nên bất lợi so với hàng hóa tương
đương sản xuất trong nội khối dẫn đến sụt giảm khối lượng và kim ngạch
xuất khẩu vào thị trường TPP.
Ngược lại, nếu yếu thế, nhiều mặt hàng hiện đang được sản xuất và
được bảo hộ bởi hàng rào thuế quan cao trong mỗi nước thành viên sẽ phải
đối mặt với nguy cơ bị đào thải bởi hàng nhập khẩu từ các nước thành
viên khác. Do đó, công ăn việc làm và thu nhập của các ngành và doanh
nghiệp tương ứng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Bởi vậy, có thể nói TPP (hay
bất cứ một thỏa thuận thương mại tự do – FTA – nào khác, ở mức độ thấp
hơn) buộc các nước thành viên phải tái cấu lại nền kinh tế của họ, và họ
có phát triển được hay không là nhờ có phát huy những thế mạnh của mình
hay không.
Với Việt Nam, lợi thế có thể thấy ngay khi TPP có hiệu lực là nó sẽ
xóa bỏ ngay hàng rào thuế quan hiện đang ở mức tương đối cao cho một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào các nước thành viên TPP.
Theo một tính toán của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách phối hợp
với JICA thì những mặt hàng này là gạo (có mức thuế suất trung bình
33,5% vào năm 2011), sản phẩm sữa (22,3%), sản phẩm giày dép (14,6%),
quần áo (10,8%) và dệt (8,4%). Khi chưa có TPP, ảnh hưởng bất lợi của
những mức thuế suất cao như vậy lên những hàng hóa xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam vào thị trường trong khối càng được khuyếch đại hơn khi nhiều
nước trong khối có những FTA với các nước và khu vực khác, trong và
ngoài TPP, ví dụ như NAFTA, và nhờ đó hàng hóa xuất khẩu giữa các nước
thành viên của các FTA này đã và đang được hưởng thuế suất 0% tạo nên ưu
thế áp đảo so với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Tương tự như vậy trên phương diện nhập khẩu. Khi TPP có hiệu lực,
Việt Nam sẽ phải xóa bỏ ngay hàng rào thuế quan cho một số nhóm hàng hóa
nhập khẩu từ các nước thành viên hiện đang có thuế suất nhập khẩu cao
như gạo (trung bình là 24,4% vào năm 2011, cũng theo nguồn tính toán nêu
trên), thịt gia súc (13,6%), các loại thịt khác (17,5%), thực phẩm chế
biến (12,1%), quần áo (13,2%), sản phẩm gỗ (6,1%) và các hàng hóa chế
tạo khác (6,5%)...
TPP đã dành hẳn một chương, Đối xử quốc gia và Tiếp cận thị trường
(gọi tắt là chương Hàng hóa), quy định những nghĩa vụ cơ bản cho các
nước thành viên TPP xóa bỏ thuế quan cho những hàng hóa nhập khẩu từ nội
khối đáp ứng điều kiện hưởng thuế 0% và đối xử với các hàng hóa này như
với hàng hóa sản xuất trong nước (đối xử quốc gia). Việc xóa bỏ hàng
rào thuế quan sẽ diễn ra ngay lập tức với phần lớn hàng hóa nhập khẩu,
và theo lộ trình với một số hàng hóa khác.
Để ngăn chặn tình trạng “lách luật” bởi các nước thành viên khi họ
một mặt xóa bỏ hàng rào thuế quan nhưng mặt khác lại tìm cách duy trì
hay mở rộng hàng rào bảo hộ phi thuế quan, chương Hàng hóa áp dụng các
nghĩa vụ về hạn chế xuất nhập khẩu của WTO. Thêm vào đó, chương này cấm
việc cấp giấy phép nhập khẩu có điều kiện theo tình trạng hoạt động (ví
dụ, để được nhập khẩu với thuế suất 0% thì nhà nhập khẩu phải sử dụng
hàng hóa hay dịch vụ trong nước ở mức nào đó, hoặc phải xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ ở mức nào đó), hoặc nhà xuất khẩu phải có quan hệ hợp
đồng với nhà phân phối trong nước của nước thành viên đó.
Vì việc cấp phép nhập khẩu là một quá trình tốn kém và là một trở
ngại cho nhà xuất khẩu, do đó có thể trở thành một rào cản phi thuế quan
nên chương Hàng hóa quy định các nước thành viên phải thông báo và cập
nhật cho các thành viên khác về quy trình cấp phép nhập khẩu cụ thể. Họ
cũng không thể tự ý áp dụng giấy phép nhập khẩu nếu không thông báo về
nó và lý do tại sao lại áp dụng nó cho các thành viên khác.
Chương Hàng hóa cũng yêu cầu các nước thành viên miễn thuế cho các
hàng hóa tái nhập khẩu sau khi được xuất khẩu để sửa chữa, thay đổi;
hàng hóa tạm nhập như dụng cụ chuyên dụng, mẫu vật trưng bầy, dụng cụ
thể thao, sản phẩm in ấn để quảng cáo... nhằm giảm chi phí cho các hoạt
động thương mại, gồm dịch vụ chuyên môn trong nội khối.
Để xóa bỏ một trong những biện pháp bóp méo thương mại nông sản mạnh
nhất – trợ cấp xuất khẩu nông sản – các thành viên cam kết trong chương
Hàng hóa xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản cho mọi nông sản xuất khẩu
trong thị trường nội khối. Như vậy, những biện pháp trợ cấp điển hình
như hoàn thuế xuất khẩu sẽ không còn được áp dụng bởi các nước thành
viên nếu họ muốn xuất khẩu nông sản vào thị trường các thành viên khác.
Các thành viên cũng thỏa thuận tiếp tục xây dựng các nguyên tắc đa
phương về tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, và các chương
trình bảo hiểm xuất khẩu... trong một nỗ lực cải cách thương mại nông
sản toàn diện.
Về những hạn chế xuất khẩu lương thực, thực phẩm, vốn có thể gây tác
động tiêu cực đến nguồn cung trên thị trường nội khối, đặc biệt với
những nước nghèo hơn, làm gia tăng lạm phát cũng như khủng hoảng cung ở
những nước này, chương Hàng hóa chỉ cho phép các thành viên hạn chế xuất
khẩu các mặt hàng này trong vòng 6 tháng và phải thông báo trước cho
các thành viên khác, đồng thời phải tham vấn với các thành viên liên
quan có nhập khẩu những mặt hàng này nếu những hạn chế này được kéo dài
trên 12 tháng.
Để hạn chế những bất lợi cho dòng chảy thương mại trong khối từ các
hành vi lũng đoạn của các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các thành
viên thỏa thuận trong chương Hàng hóa hướng đến bãi bỏ đặc quyền được
xuất khẩu nông sản và tiếp cận nguồn tài chính ưu đãi của các doanh
nghiệp thương mại nhà nước, cũng như yêu cầu các thành viên minh bạch
hơn trong hoạt động của và việc duy trì các doanh nghiệp thương mại nhà
nước.
Ngoài những quy định chính trên, chương Hàng hóa còn có một số quy
định mới khác như về hàng hóa tái/phục chế (ví dụ hàng hóa đã qua sử
dụng nhưng được làm lại như mới), theo đó các thành viên không được cấm
nhập khẩu các hàng hóa đã qua sử dụng nhưng được nhập khẩu cho mục đích
phục chế, miễn là những hàng hóa sau phục chế phải thỏa mãn một số điều
kiện để được coi là hàng như mới. Hoặc quy định về quy trình cấp phép
xuất khẩu, theo đó quy trình này phải công khai, minh bạch và cụ thể hóa
để nó không bị lạm dụng bởi một nước thành viên nào đó nhằm hạn chế
xuất khẩu những hàng hóa và nguyên liệu thiết yếu để lũng đoạn giá của
chúng trên thị trường khu vực và thế giới, cũng như tạo lợi thế bất công
bằng cho những doanh nghiệp chế biến nội địa sử dụng những hàng hóa và
nguyên liệu này so với những doanh nghiệp tương tự ở các nước phải nhập
khẩu khác.
Tóm lại, chương Hàng hóa, một cấu thành thiết yếu của TPP, sẽ tạo ra
nền tảng mới và vững chắc để các nước thành viên khai thác một thị
trường tự do lớn nhất trên thế giới đồng thời hạn chế những hành vi và
tập quán cạnh tranh không lành mạnh, đảm bảo cơ hội thịnh vượng công
bằng cho mọi đối tượng ở mọi quốc gia thành viên.
Với Việt Nam, cơ hội là rất lớn nếu biết tận dụng việc xóa bỏ hàng
rào thương mại và phi thương mại lên hàng hóa xuất khẩu của mình ở thị
trường các nước thành viên. Ngược lại, Việt Nam cũng sẽ phải thực hiện
các cam kết tương tự, nhất là các cam kết liên quan đến hàng rào phi
thuế quan. Cho đến nay, ít hay nhiều thì hầu như Việt Nam đã và đang áp
dụng các biện pháp như nêu ở trên, ví dụ như giấy phép xuất nhập khẩu,
trợ cấp xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu, ưu đãi các doanh nghiệp thương mại
nhà nước v.v... Việc phải thay đổi hay từ bỏ những biện pháp này chắc
chắn bước đầu sẽ tạo thêm áp lực và khó khăn cho nhiều ngành và chủ thể
kinh tế trong nước.
TS. PHAN MINH NGỌC